I was looking around in a searchable version of the Complete Collection of Illustrations and Writings from the Earliest to Current Times (Gujin tushu jicheng 古今圖書集成), an encyclopedic collection of texts that was compiled during the reigns of Qing Dynasty emperors Kangxi and Yongzheng and completed in 1725.
I did a search for “An Nam people” (安南人).
Four records that immediately appeared were for loyal An Nam wives of men from Guizhou. The source that was quoted for this information was the Comprehensive Gazetteer of Guizhou (Guizhou tongzhi 貴州通志).
From this text we learn about Madame Tống who vowed to never remarry after her husband died. She endured hardship until her death at the age of 89.
We also learn about Madame Dương. Married off at the age of 16, her husband drove her away, but two years later he repented and brought her back. She gave birth to a son, and then her husband died. However, she remained dedicated to the family until her death at the age of more than 70.
There are then similar stories about another Madame Tống whose husband died when she was 20 and a Madame Tiêu whose husband passed away when she was 29. Both women remained loyal to the memory of their husbands and did not remarry.
These women appear to have lived in the sixteenth century, and a couple of them were recognized and honored by the Ming Dynasty court for their loyalty.
Today, transnational marriages are a part of our globalized world and many of us probably think of this as something new. However, from looking at the Ming-period Comprehensive Gazetteer of Guizhou, we can see that this has been happening for a long time already.
I suspect (and hope), however, that the way that a young woman would decide to live her life after her husband died today would be different than it was in the sixteenth century.


I just got these comments from a reader who points out that there was an administrative unit in Guizhou called the An Nam vệ (安南衛) and that these women could have been from there. This makes sense to me.
Thanks for writing.
Sai lầm của LE MINH KHAI về “người An Nam”.
Phạm Hoàng Quân
Trong bài viết trên đây, tác giả đã sơ suất khi xác định “An Nam nhân” (trong nguyên tác viết 安南人) là người An Nam Giao Chỉ (Đại Việt/ 大越).
Thật ra, hồi thời Minh, An Nam là địa danh của vài nơi ở các tỉnh Quý Châu và Vân Nam.
An Nam vệ (安南 衛), tức An Nam vệ chỉ huy sứ ty (安南衛指揮使司) thuộc tỉnh Quý Châu, Vệ này đông giáp Trấn Ninh châu (鎭寧 州), tây giáp Phổ An châu (普安州) bắc giáp Quý Châu Tuyên uý ty (貴州 宣慰司), nam giáp An Long ty (安隆 司) của tỉnh Quảng Tây, địa phương này gồm một vệ (An Nam vệ) và một châu (Vĩnh Ninh châu/ 永寧 州), lỵ sở gọi là An Nam thành. Theo Cố Tổ Vũ trong “Độc sử phương dư kỷ yếu”
(顧祖禹-讀史方輿紀要), “xưa đây là vùng đất Tây Nam Di, thời Nguyên là nơi thuộc Phổ An lộ (普安路), thời Minh năm Hồng Võ thứ 23 (1390) đặt làm An Nam vệ”. Thời Thanh đặt làm An Nam huyện thuộc Hưng Nghĩa phủ (興義府). Địa điểm lỵ sở An Nam vệ thời Minh nay đổi tên là Tình Long, là huyện lỵ của huyện Tình Long (Qing long/ 晴隆 ), thuộc Kiềm Tây Nam Bố Y tộc Miêu tộc Tự trị châu (黔西南布依族苗族自治 州), tỉnh Quý Châu.
An Nam sở (安南 所), tức An Nam Thủ ngự thiên hộ sở (安南守禦千户所), thuộc Phổ An châu (普安 州), tỉnh Quý Châu. Sở này là nơi rất gần An Nam vệ (nói trên), đặt năm Hồng Võ thứ 22 (1389). An Nam sở nay đổi tên là Phổ An, là huyện lỵ của huyện Phổ An (Pu an/ 普安) thuộc Kiềm Tây Nam Bố Y tộc Miêu tộc Tự trị châu (黔西南布依族 苗族自治州), tỉnh Quý Châu.
An Nam ty (安南 司), tức An Nam Trưởng quan ty (安南 長官司), thuộc Lâm An phủ (臨安 府) tỉnh Vân Nam (雲南). Xưa là đất Xá Tư bộ (捨資部), đầu thời Nguyên đặt làm Xá Tư thiên hộ (捨資千户), đến năm Chí Nguyên thứ 13 (1276) vì thấy đất này gần Giao Chỉ mới đặt làm An Nam đạo phòng tống quân thiên hộ (安南道防送軍千户), thuộc Lâm An phủ; đầu thời Minh đổi là Trưởng quan ty, năm Chính Đức thứ 6 (1511) nhập vào huyện Mông Tự (蒙自縣), năm Vạn Lịch thứ 10 (1582) đặt trở lại, năm Thiên Khải thứ 2 (1622) lại bỏ, nhập đất này vào Vương Lộng trưởng quan ty (王弄長官司); thời Thanh đổi gọi là An Nam lý (安南里), nhập vào Khai Hoá phủ (開化府). Nay là đất huyện Văn Sơn (文山), thuộc Văn Sơn Tráng tộc Miêu tộc Tự trị châu (文山壯族苗族 自治州), tỉnh Vân Nam. Ty này nằm ở gần cực nam của một Phủ giáp giới phía tây bắc Việt Nam.
An Nam pha (安南坡), [pha là sườn núi, không phải cơ cấu hành chánh như Vệ, Ty, Sở] thuộc Vân Nam huyện (雲南縣) Đại Lý phủ (大理 府) tỉnh Vân Nam (雲南). Cố Tổ Vũ cho biết nơi này từng thiết lập cơ quan Tuần ty, tương truyền xưa kia có lúc là lỵ sở của quận Vân Nam, người dân địa phương gọi nơi đây là Tiểu Vân Nam (小雲南). An Nam pha nay thuộc huyện Nam Hoa (南華縣), thuộc Sở Hùng Di tộc Tự trị châu (楚雄彝族 自治州), tỉnh Vân Nam.
Sở dĩ tôi phải hơi dài dòng về quá trình diễn biến các địa danh An Nam nói trên là nhằm nhân tiện dịp này làm rõ về sự trùng hợp mà có thể còn dẫn đến những sai lầm về sau, hoặc của chính tôi hoặc của những người nghiên cứu khác.
Trong bối cảnh tư liệu mà Leminhkhai (G.S L. C. Kelley) dựa vào, tức trong khoảng thời Minh (1368-1644), như ta thấy có 4 nơi mang tên An Nam, 2 nơi ở Quý Châu và 2 nơi ở Vân Nam. Các tên An Nam này đều cùng mặt chữ Hán với An Nam Đại Việt (tức đều viết là 安南). Như vậy, có tất cả là 5 trường hợp có thể nằm trong trích dẫn của Quý Châu thông chí.
Quý Châu thông chí viết:
Tống thị, An Nam nhân, Chỉ huy Tiêu Luật thê…, (họ Tống, người An Nam, vợ của Chỉ huy Tiêu Luật/ 宋氏, 安南人, 指揮蕭律妻)
Dương thị, An Nam nhân, niên thập lục quy Bá hộ Lý Tuân…, (họ Dương, người An Nam, 16 tuổi về với Bá hộ Lý Tuân/ 楊氏, 安南人, 年十六歸百户李遵)
Tống thị Vương Duy Viên thê, An Nam nhân. Niên nhị thập phu vong.., (Vợ của Vương Duy Viên họ Tống, người An Nam. Năm 20 tuổi chồng chết.. /宋氏王維垣妻, 安南人. 年二十夫亡)
Tiêu thị Đào Nhữ Long thê, An Nam nhân. Niên nhị thập cửu phu vong.., (Vợ của Đào Nhữ Long họ Tiêu, người An Nam. Năm 29 tuổi chồng chết../ 蕭氏陶汝龍妻, 安南人. 年二十九夫亡)
Cả bốn người phụ nữ “Tiết hạnh khả phong”mang hoàn cảnh đáng buồn này đều là người An Nam, nhưng tôi nhận định họ không phải là người An Nam Đại Việt. Và họ cũng không phải ở An Nam ty hay An Nam pha thuộc tỉnh Vân Nam.
Sách địa phương chí (như Quý Châu thông chí) khi viết về một nơi ngoài địa vực hành chính của mình phải theo nguyên tắc chép địa danh lớn rồi kế đến là địa danh nhỏ, như các trường hợp trên đây, nếu bà họ Tiêu ở Vân Nam thì phải chép: “Tiêu thị Đào Nhữ Long thê, Vân Nam An Nam nhân”. Hoặc nếu như bà họ Tống ở Đại Việt thì chép: “Tống thị, An Nam quốc nhân..”, tuy nhiên, đa số các biên chép thời Minh ít khi chép như vậy, mà thường dùng chữ “Giao Chỉ nhân” để chỉ con người, và dùng chữ “An Nam” để chỉ nhà nước.
Bởi bốn bà này ở ngay trong tỉnh Quý Châu nên Quý Châu thông chí chỉ chép họ là An Nam nhân, tức địa phương trực thuộc của tỉnh nhà mà thôi.
Mặc dù sai lầm nhưng suy tưởng của Leminhkhai về hôn nhân xuyên quốc gia và về thân phận “thủ tiết” của những phụ nữ cô quạnh này thật đáng được chia sẻ.